-Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền -
Là
một sinh viên đã từng hoạt
động rất đắc lực trong “phong trào phản chiến”. Nhưng điều cần
phải
nói là suốt trong thời gian trước ngày 30/4/1975 Huỳnh Ngọc
Chênh đã
từng sát cánh, kề vai với Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Hữu Thái
v…v… để hô
hào “chống Mỹ,” chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đòi Mỹ
phải rút
quân…
Và,
trước khi viết tiếp, thì
người viết tự thấy, cũng cần phải nhắc lại: Những giải
thưởng
đã từng được trao cho nhiều người, trong đó, có giải Nobel Hòa
Bình,
vốn là một giải cao quý theo như nguyện vọng ghi trong di chúc của
Alfred
Nobel. Giải Nobel Hòa Bình được trao “cho
người đã có đóng góp to lớn trong việc đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các
quốc
gia, trong việc giải trừ hoặc hạn chế các lực lượng vũ trang và trong
việc tổ
chức hay xúc tiến các hội
nghị hòa bình”. Có
nhiều người cho rằng Nobel đã lập ra giải thưởng này trong di chúc như
một cách
đền bù cho các loại chất nổ của ông đã phát minh vốn được sử dụng rộng
rãi
trong chiến tranh như dynamite hay ballistite. Thực tế thì ngoại trừ
ballistite, không một loại chất nổ nào của Nobel được sử dụng trong
chiến tranh
khi ông còn sống.
Giải
Nobel Hòa bình được trao hàng năm
vào ngày 10 tháng 12, ngày mất của Alfred Nobel tại thủ đô Oslo của Na
Uy.
Thế
nhưng, sau khi Alfred Nobel
mất, rồi sau đó, giải Nobel Hòa Bình đã “biến thể” để chỉ
còn là
một loại giải dành cho những “điều kiện - mặc cả”; như trước
đây,
người ta đã thấy Giải Nobel Hòa Bình đã được trao cho những
người
không hề mang lại một phút hòa bình nào cho chính dân tộc của
họ.
Trường hợp của Lê Đức Thọ,
đã được trao giải, (mặc dù Lê ĐứcThọ không nhận) nhưng là một
điển
hình.
Như
đã nói, cho đến ngày hôm nay,
giải Nobel Hòa Bình đã “biến thể” để trở thành như thế, thì
thử
hỏi, những loại “giải thưởng” khác có còn chăng những ý nghĩa
và giá
trị như lúc ban đầu. Và cũng cần phải biết rằng: Đối với
những
người Việt Nam, đã được các tổ chức của ngoại quốc trao
những giải
khác nhau, là do sự “vận động” của các “tổ chức tranh đấu”
của
người Việt tại hải ngoại, chứ các “hội đồng trao giải” không
biết
gì về người được trao giải cả, trong đó, có Huỳnh Ngọc Chênh.
Vậy,
đây là một Huỳnh Ngọc Chênh,
bằng những dòng của chính Chênh đã viết, qua bài: “Bất
An” và
đã được các báo trong nước giới thiệu như sau:
“Huỳnh
Ngọc Chênh
(SN 1952) hiện sống tại Việt Nam, xuất thân là một giáo viên mãi đến
1992 ông
mới vào nghề báo, từng là cựu Thư
ký tòa soạn báo Đảng, Thanh Niên Chủ Nhật.
Trước
75, ngay khi
sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm chiến
tranh ác
liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố, còn mẹ
tôi vẫn ở
lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê, thường
xuyên nghe
tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà
Nẵng.
Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh
tang
thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy bất
an”.
“Sinh
năm 1952”, như
vậy, cho đến ngày 30/4/1975, Huỳnh Ngọc Chênh 23 tuổi. Và chính ngày
này, Huỳnh
Ngọc Chênh đã cùng với Trịnh Công Sơn và Nguyễn Hữu Thái
“Chủ
tịch Sinh viên Sài Gòn” và cũng là người đã từng đứng trong
“Mặt
trận Giải phóng miền Nam” là một trong những tổ chức ngoại vi
của đảng
Cộng sản Hà Nội, và thêm một số sinh viên “phản chiến” nữa.
Tất cả
đã lên
Đài Phát
Thanh Sài Gòn để cùng nhau hát bài: “Nối
vòng tay
lớn”, như
một trích đoạn của Nguyễn Hữu Thái đã được BBC Tiếng Việt đăng tải vào lúc 14 h 14
GMT, ngày
19 tháng 5 năm 2005 như sau:
19
Tháng 5 - 2005 -
Cập nhật 14h14 GMT
“Trích
đoạn cuốn:
Những điều chưa nói hết về 30-4-1975:
“Đó
là một cuốn
sách rất mỏng với nội dung liên quan cuộc chiến Việt Nam, chưa
đầy 50
trang giấy.
Tác
giả cuốn sách không phải là
người ở phía bên kia, mà đã từng tham gia phong trào đấu tranh
sinh
viên ở Sài Gòn, ở lại Việt Nam cho đến năm 1990. Ông vẫn giữ
quan hệ
với người ở trong nước và thường viết bài cho các báo ở
Việt Nam
Tuy
vậy, khi gửi về Việt Nam để
in, bản thảo chỉ nhận sự im lặng và theo tác giả, cuốn sách
‘hơi tế
nhị và nhạy cảm trong giai đoạn này’ vì không đúng với một
số văn
bản chính thức trong nước.
Tác
giả, ông Nguyễn
Hữu Thái, nói
với đài BBC rằng trong sách, ông mô tả lại từ góc độ nhân
chứng về
diễn biến của ngày 30-4-1975 ở Sài Gòn.
Ông
nói với đài BBC rằng ông vẫn
để dành bản thảo để chờ một ngày in trong nước vì đối tượng
độc
giả ông nhắm đến là người ở Việt Nam và vì trong thời chiến,
ông là
người có cảm tình và hoạt động trong phong trào cách mạng
chứ không
phải đứng ở bên ngoài.
“...Giáo
sư Vũ Văn Mẫu phát biểu tiếp
theo:
“Trong
tinh thần hòa giải và hòa hợp
dân tộc, tôi, giáo sư Vũ Văn Mẫu, thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng
lớp đồng
bào hãy vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh
hoạt bình
thường. Nhân viên của các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ dưới
sự
hướng dẫn của chính quyền cách mạng”.
Và
cuối cùng là lời chấp nhận đầu hàng
của chính ủy Bùi Văn Tùng:
“Chúng
tôi đại diện lực lượng quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được
giải
phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương
Văn Minh,
tổng thống chính quyền Sài Gòn”.
Và
Thái tiếp tục nói: “…Quân Giải phóng
đã tiến vào dinh Độc Lập và đã làm chủ hoàn toàn các điểm chốt quân sự
cũng như
dân sự của vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định…”
Phải
chăng những khoảnh khắc, những
tuyên bố đó đã chấn động lòng người, làm nước mắt trào ra từ nhiều
đường rừng,
mặt trận và cả ở miền Bắc nước ta. Người ta mừng rỡ, hồi hộp và lắng
nghe từ
xa.
Sáng
30/4, trong chiến khu miền Đông,
nhà báo Đinh Phong không dám rời chiếc radio nhỏ đeo bên mình. Các anh
em đã
xuất quân hết vào sáng 29/4. Trước khi đi anh Hai Khuynh (Nguyễn Huy
Khánh)
trong ban biên tập báo Giải Phóng nói nhỏ với anh: “Phải bám chặt đất
Sài Gòn
suốt đêm ngày”. Gần trưa đài phát thanh Sài Gòn mất sóng. Anh nghĩ
thầm: Chắc
là có chuyện rồi. Hồi Tết Mậu Thân năm 1968, mình cũng chờ mãi như thế.
Thì ra
ta đã chiếm được đài phát thanh Sài Gòn rồi nhưng không vận hành được!
Gần
trưa thì có tiếng rọt rẹt. Tất cả
anh em đều bỏ ăn cơm ngồi bên chiếc radio chờ đợi. Bỗng có tiếng nói,
giọng nam
còn trẻ: “Chúng tôi là những người đại diện cho Ủy ban nhân dân cách
mạng Sài
Gòn-Chợ Lớn-Gia Định… Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng và cựu chủ
tịch Tổng
hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái…” Tiếp đó là lời đầu hàng của
tướng Dương
Văn Minh.
Cả
cơ quan reo hò tung chén dĩa, mũ
nón. Biết tôi là người theo dõi phong trào đô thị, anh em quây lại hỏi:
-
Huỳnh Văn Tòng và Nguyễn Hữu Thái là
ai?
Nhà
báo Đinh Phong chỉ biết tên Nguyễn
Hữu Thái qua phong trào học sinh sinh viên Sài Gòn, biết anh là chủ
tịch Tổng
hội sinh viên Sài Gòn khóa 1963-64. Vì vậy, anh bèn nói với anh em:
-
Nhất định đó là ‘người của ta’ rồi,
người của ta chiếm đài phát thanh mới cho đọc lời đầu hàng của Dương
Văn Minh…
Xong
việc, hai chỉ huy bộ đội đưa đoàn
tướng Minh về lại dinh Độc lập. Chính ủy Bùi Văn Tùng tuy đã thực hiện
được một
công tác cấp bách và cần thiết phát đi được lời đầu hàng của tướng
Minh, nhưng
ông vẫn bị cấp trên rầy rà cho đó là một việc làm mạo hiểm. Nếu có mệnh
hệ nào
cho tướng Minh thì rất khó ăn nói cho phía cách mạng đối với dư luận
trong và
ngoài nước.
Thái
đích thân đứng ra điều hành buổi
phát thanh ấy, đọc thêm bảng công bố của Cách mạng đối với vùng mới
giải phóng,
mượn của một chính trị viên.
Thái
và Tòng cố tình xưng tên tuổi mình
là nhắm tạo tâm lý trấn an nhân dân Sài Gòn. Gần đây, nhân dân phía Nam
từng bị
guồng máy tâm lý chiến của Mỹ và Sài Gòn ra rả tung tin thất thiệt, mô
tã nào
cảnh tắm máu khi bộ đội
đến miền Trung làm dân Sài Gòn sợ điếng hồn. Mọi người thực sự đang
kinh hoàng,
chỉ mong tìm đường tháo chạy thoát thân với bất cứ giá nào! Hy vọng khi nghe được tên tuổi Thái,
Tòng họ sẽ
nghĩ: “À, nếu mấy tên tư sản kiểu như Tòng, Thái mà còn đó thì chắc
cũng không
đến nỗi nào!”. Về sau nghe nói có nhiều người lấy tàu chạy ra biển xa
đã quay
lại và bị bắt đi học tập hoặc bị giam giữ đã trách cứ Thái, Tòng lừa
gạt họ!
Nhóm
sinh viên chủ động tự biên tự diễn
chương trình phát thanh, chủ yếu làm sao đưa ra được lời tuyên bố đầu
hàng của
tướng Minh, thông báo chính sách của chính quyền cách mạng lâm thời về
vùng mới
giải phóng và trấn an dư luận dân chúng Sài Gòn, vùng Đồng bằng sông
Cữu Long,
các hải đảo. Xen kẽ vào các lời ghi âm sẳn phát đi phát lại nêu trên,
họ tranh
thủ kêu gọi đại diện đồng bào các giới đến lên tiếng trên làn sóng phát
thanh.
Thấy
trong đám đông ùa đến đài có nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn, sinh viên Huỳnh
Ngọc Chênhđưa
anh vào và tất cả cùng anh hát vang bài “Nối vòng tay
lớn”.
***********
Trên
đây, là những dòng của Nguyễn
Hữu Thái đã cho biết vào ngày 30/4/1975, đã có mặt cả Huỳnh
Ngọc
Chênh và Nguyễn Hữu Thái, Trịnh Công Sơn tại Đài Phát Thanh
Sài Gòn.
Những điều này, người viết sẽ nói đến ở bài sau. Còn bây
giờ,
người viết cần phải nhắc lại những điều mà chính Huỳnh Ngọc
Chênh
đã viết trong bài: “Bất
An” như
sau:
“Trước
75, ngay khi
sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm chiến
tranh ác
liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố, còn mẹ
tôi vẫn ở
lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê, thường
xuyên nghe
tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà
Nẵng.
Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh
tang thương
chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy bất an.”
Nên
biết, ngày 30/4/1975, tất cả
những thanh thiều niên từ mười hai tuổi trở lên, không phân biệt
nam,
nữ, sinh viên, học sinh, kể cả dốt chữ đều bị Việt cộng bắt
hết,
đem lên rừng, để làm du kích, “nữ cứu thương” cho “bộ đội”
hoặc “du
kích bác Hồ”, nếu lỡ đi lọt vào những vùng mất an ninh, mà
người
dân thường gọi là “vùng xôi đậu”. Nghĩa là, những nơi ấy, cứ
ban
ngày có thể có bóng dáng của các Chiến Sĩ Địa Phương Quân-
Nghĩa
Quân VNCH, còn ban đêm, thì Việt cộng hoàn toàn kiểm soát, mà
cũng
có khi Việt cộng kiểm soát cả ngày lẫn đêm.
Những
điều đã nói ở trên, là
hoàn toàn đúng với sự thật, vì chính gia đình của người
viết đã
từng bị du kích Việt cộng bắt, rồi đem giam dưới hầm đất,
bất kể
nắng mưa trước khi được cứu thoát. Vì thế, nên những đêm mưa,
Mẹ của
người viết phải ngồi canh, thức trắng, để tát nước trước
miệng hầm,
vì sợ các con của mình phải chết vì hầm ngập nước. Huỳnh
Ngọc
Chênh hãy thôi, đừng lừa gạt mọi người nữa.
Trở
lại với những lời của Huỳnh
Ngọc Chênh, mặc dù không cho biết “mẹ
tôi vẫn
ở lại quê bám trụ”, là “bám
trụ” ở
quận, thôn, xã nào gần thành phố Đà Nẵng. Nhưng, không một ai
không
biết rằng: Một khi đã quyết định “ở
lại quê bám
trụ”, là
chính người đó, đã chấp nhận sống chung với Việt cộng, và
ngược lại
Việt cộng cũng chấp nhận họ được ở lại, trong khi chồng tức
là cha
của Huỳnh Ngọc Chênh lại xuống sống tại Đà Nẵng. Điều này,
dễ
hiểu, vì có “đôi bên cùng có lợi”.
Riêng
Huỳnh Ngọc Chênh một sinh viên
đã trưởng thành mà “vẫn
cứ đi đi về cả hai nơi mà vẫn không cảm thấy bất
an”. Nghĩa
là Việt cộng chấp nhận cho Huỳnh Ngọc Chênh được“cứ
đi đi về
về” mà
không bắt bớ, không hề làm khó dễ gì đối với cha mẹ vả cả
Huỳnh
Ngọc Chênh hết. Nhưng còn nữa, cho dù Huỳnh Ngọc Chênh không
nói, song
ai cũng biết, “gia
đình tôi tách làm hai. Ba tôi
xuống thành phố, còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ” thì
chắc chắn, không riêng Huỳnh Ngọc Chênh mà cả cha của Huỳnh
Ngọc Chênh
cũng được Việt cộng cho tự do “cứ
đi đi về về” để
thăm vợ con nữa, chưa nói đến những hành vi khác trong bóng
tối của
cả gia đình này...
Huỳnh
Ngọc Chênh viết tiếp:
“Đêm
ngủ ở quê,
thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh
từ phi
trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà
dân gây ra
cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không
cảm thấy
bất an”.
“Đêm
ngủ ở quê” là
ở quê
nào, mà “thường
xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven bìa làng do lính Mỹ bắn cầm
canh từ
phi trường Đà nẵng”???
Huỳnh
Ngọc Chênh cần phải biết:
Lính Mỹ hay Không quân Việt Nam Cộng Hòa ở phi trường Đà Nẵng
chỉ có
dội bom vào những vùng đất đã bị Việt cộng hoàn toàn kiểm
soát,
còn “đại
bác”, thì
do Binh chủng Pháo Binh bắn vào, nhưng cũng chỉ bắn vào những
nơi đã
bị Việt cộng kiểm soát, có thể là cái vùng quê, mà cha mẹ
của
Huỳnh Ngọc Chênh đã chấp nhận sống cùng với Việt cộng, chứ
Pháo
Binh không bao giờ bắn “đại
bác” vào
những khu dân cư ở những vùng Quốc Gia kiểm soát.
Ngoài
ra, Huỳnh Ngọc Chênh đã
viết: “cứ
đi đi về về”.
Vậy, khoảng thời gian ấy là bao lâu, vì quê của Huỳnh Ngọc
Chênh phải
ở gần thành phố Đà Nẵng, thì mới di chuyển như thế được.
Bởi vì,
nếu cái “làng” của Huỳnh Ngọc Chênh ở quá xa phi trường Đà
Nẵng,
thì “đại
bác” không
bắn tới, mà ở gần quá, thì Phi trường Đà Nẵng, với tầm đạn
của “đại
bác” cũng
không trực xạ “cầm
canh” được.
Huỳnh
Ngọc Chênh cần phải biết hai
điều:
1
- Cho dù là loại “đại bác” 155
ly, 175 ly, thì cũng chỉ bắn ở tầm xa cỡ 10 đến 13 km mà thôi.
2-
Ngày xưa, trước năm 1975, cha mẹ
của Huỳnh Ngọc Chênh đã “bám
trụ” và “đi
đi về
về” ở
các quận nào nằm quanh thành phố Đà Nẵng như: Hòa Vang, Hiếu
Đức,
Hậu Đức, Thượng Đức, Khâm Đức, Quế Sơn, Tiên Phước, Thăng Bình,
Tam Kỳ
Hương An... hay Hiên, Giằng, Phú Túc, Ái Nghĩa, Túy Loan, Hòa
Khánh,
Phước Tường...? Nên biết, ở những nơi ấy, đều có những Trại
Lực
Lượng Đặc Biệt - Biệt Kích, (sau này, đã “cải tuyển” thành
những
Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng) và mỗi trại đều có một
Pháo
Đội Pháo Binh của Mỹ, để đêm đêm thì bắn hỏa châu soi sáng cả
một
vùng đồi núi, để các anh chiến sĩ ngồi trên những vọng gác
dễ dàng
theo dõi những di chuyển của địch quân, và nếu phát hiện ra,
thì các
anh sẽ gọi về căn cứ, để pháo binh kịp thời chôn xác địch
bằng
những quả “đại
bác” cỡ
155 ly, 175 ly, chứ không cần đến “đại
bác” của
phi trường Đà Nẵng, mà chỉ cần những quả bom của Không đoàn
tại Phi trường
Đà Nẵng nổ chụp xuống những vùng đất địch để tiêu diệt Cộng
quân.
Và
ngoài các Trại Lực Lượng Đặc
Biệt - Biệt Kích ấy, còn có một trong số 58 Tiểu Đoàn Pháo
Binh đều
luôn luôn tăng phái một Pháo đội đến các vùng mất an ninh, để
yểm
trợ cho các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân... mà tại Quảng
Nam -
Đà Nẵng Tiểu Đoàn 22 Pháo Binh: KBC 4869, và Tiểu Đoàn 34 Pháo
binh:
KBC 4451/31/C/HQ. Hai Tiểu đoàn này, luôn luôn thay phiên tăng phái
những
Pháo Đội Pháo Binh đến đóng trên những tiền đồn ở những vùng
xa xôi
ấy, và lúc nào cũng sẵn sàng chấm tọa độ một cách chính
xác, để
tiêu diệt địch quân.
Nói
tóm lại: Huỳnh Ngọc Chênh đã
viết những điều hoàn toàn LÁO, vì không bao giờ có cái chuyện “thường
xuyên
nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi
trường Đà
Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra
cảnh tang
thương chết chóc”.
Xin
mọi người đừng quên: Ngày xưa,
Thích Nhất Hạnh và Võ Văn Ái đã lừa bịp được cả Mỹ, Pháp
và
nhiều nước nữa, với những câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, láo
khoét
trong cuốn Ngụy thư: “Hoa
Sen Trong Biển Lửa”, thì
ngày nay, Huỳnh Ngọc Chênh đã bịa đặt ra những câu chuyện trong
bài
viết: “Bất
An” thì
không có gì là lạ. Bởi vì, tất cả đều ở trong cái lò “phản
chiến”
mà ra cả đấy thôi.
Và
hôm nay, Huỳnh Ngọc Chênh hiện
đang có mặt tại nước Pháp, Huỳnh Ngọc Chênh hãy trả lời
những điều
mà người viết đã nêu ra như trên. Còn rất nhiều những điều
khác,
người viết sẽ nói đến trong bài kế tiếp.
Paris,
19/03/2013
Hàn
Giang Trần Lệ
Tuyền
Tên chênh này giờ bị thất sủng quay xe chửi cộng sản,rồi cho con cái định cư ở Mỹ
Trả lờiXóaChính xác,nó không được trọng dụng nên quay lưng 180°.
XóaNhững thằng đã ăn cơm, uống nước của chính quyền VNCH rồi quay lại chửi...đón tiếp bọn KB vào thì nên chửi vào hầm phân mà chết mẹ cho rồi.
Trả lờiXóaChính xác !
Trả lờiXóa