-Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền -
Như
quý độc giả đã đọc qua bài số 1, về Huỳnh Ngọc Chênh. Nhưng
tiếc
rằng, có người đã không hiểu, hay không muốn hiểu cho rõ ràng
về
những sự kiện mà người viết đã nêu ra: Huỳnh Ngọc Chênh đã
viết bài: “Bất
An” vào ngày 16 tháng
tám năm 2012; nghĩa
là cho đến thời điểm 2012,
Huỳnh Ngọc Chênh đã sáu mươi tuổi rồi, chứ không còn là đứa
trẻ. Như
thế, mà Huỳnh Ngọc Chênh vẫn cố tình viết ra những điều hoàn
toàn
bịa đặt, không có thật, mà người viết đã phân tích rõ
ở bài
số 1. Do đó, nên người viết tự thấy, cần phải nhắc lại nguyên
văn như
sau:
“Đêm
ngủ ở quê, thường xuyên nghe tiếng đại bác ven rìa làng do
lính Mỹ
bắn cầm canh từ phi trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài
quả
đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh tang thương chết
chóc...”.
Thế
nhưng, vẫn có
người cố tình nhắm mắt, giả mù, nhằm để đánh lạc hướng của
những
vấn đề ấy. Vì thế, nên người viết phải đính kèm dưới đây là
bài
viết của tác giả trên Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, chứ không phải
ở những
trang nào khác, để mọi người biết được một Huỳnh Ngọc Chênh
khi đã
sáu mươi tuổi đời rồi, mà vẫn nói láo, thì chắc chắn bản
chất nói
láo ấy, vốn có là do từ bẩm sinh vậy. Kính mời quý vị hãy
nhìn
xem:
Huỳnh
Ngọc Chênh. Đôi lời tâm sự
lúc buồn vui. Thứ năm, ngày 16 tháng tám năm 2012” như
dưới đây:
Thứ
năm, ngày
16 tháng tám năm 2012
BẤT
AN
Trước
75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành.
Những năm
chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống
thành phố,
còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở
quê,
thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh
từ phi
trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà
dân gây ra
cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không
cảm thấy
bất an. Đêm ngủ ở Đà Nẵng thỉnh thoảng lại nghe hú còi báo động có pháo
kích
của Việt Cộng bắn về thành phố, nhiều người phải chạy vào nấp dưới hầm,
riêng
tôi vẫn nằm tỉnh queo trên giường, không chút lo sợ.
Bây giờ sống trong hòa bình, mà hòa bình đã gần 40 năm rồi sao trong lòng cứ thắc thỏm bất an. Do tuổi già ư? Không phải như vậy.
Làm sao mà yên ổn được khi bước ra đường phải lo sợ trước bao nhiêu điều hiểm nguy đang rình rập. kẹt xe, khói bụi ô nhiễm, tai nạn giao thông, đinh tặc, cướp giật, va quẹt xe đưa đến bị hành hung, cây đổ, dây điện đứt, sụp hố cống.... Một ngày ở thành phố lớn như Sài Gòn, xảy ra không biết bao nhiêu vụ tai nạn giao thông, bao nhiêu vụ cướp giật, hành hung, đâm chém...thấy tận mắt hoặc đọc báo, nghe đài mà oải cả người.
Hầu như mọi thứ thức ăn đều có nguy cơ chứa chất độc hại do dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng kháng sinh, do chất kích thích hoặc do làm ra gian dối. Không thể nào yên tâm với thức ăn ở các hàng quán. Cà phê hóa chất, phở ngâm formol, dầu ăn từ cống rãnh, chế biến thức ăn bên cạnh nhà vệ sinh... Thực phẩm mua ở chợ về tự chế biến cũng hoàn toàn không yên tâm. Rau, giá, trái cây đầy rẫy chất kích thích cực độc (nhất là trái cây Trung cộng), cá thì bị ướp hàn the, thịt thì không kiểm định hoặc thịt bị dùng chất tăng trưởng độc hại. Bất an với món ăn ở hàng quán nhưng cũng không thể nào an tâm với bửa ăn tự nấu nướng ở nhà.
Tình trạng ô nhiểm thì kinh hồn. Đường xá thì khí thải và bụi bẩn bay mù mịt, cống rãnh và kênh rạch thì đen ngòm vì chất thải bẩn. Rồi ô nhiểm âm thanh mới kinh hồn.
Trong công việc mưu sinh, bất an khắp mọi nơi. Vật giá liên tục leo thang, quá nhiều công ty nợ nần phá sản, chiếm dụng vốn và lừa đảo khắp mọi nơi. Khuyến mãi lừa đảo, bán hàng đa cấp lừa đảo, thế chấp vay lừa đảo...Sụ bất an do suy thoái kinh tế làm người có vốn không dám bỏ tiền ra đâu tư, người làm công cứ thắc thỏm lo mất việc từng ngày.
Khi bị ngã bệnh, phải đến bệnh viện thì người dân hoàn toàn không yên tâm. Chỗ nằm thiếu, phương tiện y tế lạc hậu, tay nghề cũng như lương tâm thấp kém của y bác sĩ có thể làm cho bệnh nhân không những không được cứu chữa thích đáng mà còn gây ra tử vong vô lý nữa. Biết bao nhiêu cái chết oan khiên được nêu ra và không được nêu ra do sự tắc trách của bệnh viện.
Hành chính thì nhũng nhiễu, thường gây ra sự phiền hà cho dân để công chức ăn hối lộ thay vì tận tụy phục vụ dân. Có việc đến cơ quan công quyền như thuế vụ, hải quan, nhà đất, ủy ban các cấp, công an...người dân phải khúm núm quỵ lụy và lo lót thì sự việc mới trơn tru. Có lỗi bị tạm giữ trong đồn công an, người bị tạm giữ hoàn toàn không yên tâm. Chuyện bị chết trong đồn công an đã trở nên quá phổ biến.
Chuyện an ninh quốc phòng thì được nghe nói đã có đảng và nhà nước lo nhưng người dân hoàn toàn thấy bất an. Ngư dân ra khơi là bị Trung cộng đuổi bắt hoặc đâm chìm tàu. Tàu chiến, tàu hải giám, tàu cá của Trung Cộng hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ biển Đông. Trong đất liền thì chỗ nào, lãnh vực nào cũng có mặt người Tàu.
Cơ quan chức năng và ban bệ rất nhiều, người dân phải è lưng ra đóng thuế để nuôi một bộ máy nhà nước vô cùng cồng kềnh, nhưng bộ máy ấy hoàn toàn không làm cho người dân an tâm.Bất ngờ đau ốm không dễ dàng có xe cấp cứu đến, bị cướp bóc trấn lột không dễ gì gọi được công an. Thức ăn nhiểm bẩn hầu như không có cơ quan nào quan tâm....Người dân cảm thấy bị bơ vơ đơn độc giữa cuộc đời.
Một nhà nước yếu kém, bất lực và vô trách nhiệm như vậy mà sao vẫn tồn tại lâu vậy nhỉ? Đây có lẽ là nỗi bất an lớn nhất mà người dân phải mang nặng trong lòng.
***********
Trở lại với những lời do chính
Huỳnh Ngọc Chênh đã viết. Nếu những dòng ấy, mà Huỳnh Ngọc
Chênh đã
viết ra lúc còn ở tuổi thiếu niên, hoặc kể cả lúc đang “phản
chiến -
tranh đấu chống Mỹ” cùng với Nguyễn
Hữu Thái, Huỳnh Tấn Mẫm,
Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt... ở
trong cái “Đại Học Vạn Hạnh” do Chỉ
huy trưởng Thích Minh Châu,
và Chỉ huy phó Đoàn Viết Hoạt, thì
có thể “biện minh” dù bằng những lời lẽ ngụy biện. Còn
những dòng
này là do một ông già Huỳnh Ngọc Chênh đã sáu mươi tuổi viết
ra, thì
rõ ràng là cố tình bịa đặt, cố tình nói láo. Bởi vì không
hề có
cái chuyện “thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven bìa làng do
lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà Nẵng”. Những điều
này, đã cho thấy Huỳnh Ngọc Chênh nói Láo chẳng khác gì
Thích Nhất
Hạnh và Võ Văn Ái trong cuốn Ngụy thư: “Hoa sen trong
biển lửa”, cũng như Nguyễn Đan Quế và Đoàn
Viết Hoạt với “gần ba mươi năm tù, bị tra tấn, biệt giam” vậy.
Mà
điều rất rõ ràng như mọi người đã thấy, những tên “phản
chiến” này,
đa số đều xuất thân từ cái “lò đào tạo” của Ấn Quang -Vạn Hạnh cả; và bây giờ, thì đảng Cộng sản Hà Nội đã cho
Huỳnh Ngọc
Chênh được hoàn toàn tự do viết bài trên hệ thống Internet,
rồi lên
máy bay từ phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn sang Paris, được tự
do gặp
gỡ tất cả những “tổ chức tranh đấu” và người viết đã được
biết
vào ngày Chúa nhật tới đây nữa... Trong số đó, có Nguyễn
Khanh của
“Đài Á Châu tự do”, để nói chuyện “muốn bỏ điều 4 Hiến pháp”.
Ngày 16 tháng 5 năm 2012, Huỳnh Ngọc
Chênh đã kể lại những chuyện “Trước 1975, gia đình tôi tách làm
hai. Ba tôi xuống thành phố, còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám
trụ. Tôi đi
đi về về cả hai nơi”.
Chỉ chừng ấy thôi, thì người
viết đã hiểu tất cả. Bởi vì, chính người viết đã từng
chứng kiến
những trường hợp “bám trụ” giống như gia đình của Huỳnh Ngọc
Chênh. Xin
kể lại như sau:
Vào những năm tháng trước năm 1975,
ở các nơi, dù ở những nơi thôn quê, chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa đều
có thành lập những Khu Định Cư, để tiếp đón những đồng bào
đã bỏ
nhà cửa ruộng vườn để tỵ nạn Cộng sản. Tại Đà Nẵng có các khu
định cư
như An Hòa, gần ngã ba Huế, khu định cư Hòa Cầm, khu định cư quận Ba,
Đà Nẵng. Và
ở mỗi Khu Định Cư để đồng bào ở tạm. Sau đó, mỗi gia đình
được cấp
bốn mươi tấm tôn (tôles) để cất nhà ở, được nhận xi-măng để
xây giếng
nước uống, được cấp tiền ăn trong sáu tháng, tính theo nhân
khẩu,
trong Tờ Khai Gia Đình, mỗi người được cấp bốn ngàn đồng tiền
Việt
Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra, đồng bào được phát các
loại hạt giống như, bắp, đậu, rau cải... để gieo trồng làm
thức ăn. Và
cứ hai tháng một lần, đồng bào đến các nhà của đại bài
gạo, để
nhận cũng tính theo nhân khẩu, nhưng người viết nghĩ chắc đã
bị
chính quyền địa phương ăn xén, nên mỗi người chỉ nhận có hai
ký gạo.
Ngoài ra, còn được cấp phát cả bột sữa và bột mì. Còn tại nhà của
các ông
Ấp trưởng, thì mỗi gia đình chỉ nhận được một ký mắm, một
lít dầu
ăn, một lít dầu hỏa, và hai mét vải mà thôi.
Mặc dù như thế, nhưng đồng bào
không đến nỗi phải bị đói khát, vì họ đã dùng số tiền bốn
ngàn
đồng mỗi người đã nhận lúc ban đầu, nếu gia đình càng đông
người,
thì số tiền càng khá nhiều, để làm vốn mà buôn bán sinh lợi
về sau.
Như thế, tại sao có những người như gia đình của
Huỳnh Ngọc
Chênh lại quyết định “bám trụ” ở chung với
Việt cộng?
Xin thưa, vì đã từng bị du kích Việt cộng bắt,
đã ở trong vùng đất của Việt cộng kiểm soát, nên đã biết
rất rõ
ràng: Tất cả những người đã “bám trụ” như gia đình của Huỳnh
Ngọc
Chênh, họ đều là những gia đình có liên hệ với Việt cộng như:
1 - Họ có con cái theo Việt cộng, nên phải ở lại
để tiếp tế
cho con cái của họ, bằng cách thường xuyên “đi đi về về cả hai nơi” để mua lương thực như gạo, muối, mắm; đặc biệt
và quý nhất là bột ngọt, Việt cộng gọi là “mì chính”, để
trộn
vào muối ăn cơm, và cũng làm “thuốc” cầm máu khi rắc vào
những vết
thương nhẹ nữa.
2- Họ được Việt cộng cung cấp tiền
bạc để cả gia đình sống một cách đầy đủ, con cái được ở
vùng Quốc
Gia ăn học, để lớn lên tiếp tục làm Cộng sản. Họ không cần
phải lao
động mưu sinh, để họ cứ thường xuyên “đi đi về về cả hai nơi” để lấy tin
tức, thăm dò những nơi đóng quân của Quân đội Việt Nam Cộng
Hòa rồi
báo cáo cho Việt cộng, hoặc sẽ nhận của Việt cộng những
loại chất
nổ như TNT, lưu đạn... rồi đem xuống thành phố để gài vào
những
trường học, nhà thương, những khu phố chợ, đặc biệt là những
Khu
Định Cư, để giết chết đồng bào vô tội.
3 - Ngoài ra, có một số người được Việt cộng cấp
vốn và cho
về thành phố, xây dựng nhà cửa, để mở các cửa hàng buôn bán
làm
giàu, để giữa vợ chồng con cái của họ cứ thường xuyên “đi đi về về cả hai nơi”, mà cung cấp
cho Việt cộng những tin tức cần thiết. Và, chính những nơi
ấy, là
những nơi đã từng nuôi giấu những đặc công Cộng sản và vũ
khí dưới
những chiếc hầm bí mật. Tại thành phố Đà Nẵng, sau ngày
30/4/1975, nhiều người đã biết có một số căn nhà là của Việt
cộng
như đã kể, trong đó, có căn nhà số 29 đường Nguyễn Trãi, tại
ngã ba
Ông Ích Khiêm, gần chùa Pháp Lâm, chùa “Tỉnh giáo hội PGVNTN
Quảng
Nam-Đà Nẵng”, (thường được gọi là “chùa Tỉnh Hội) ở số 500,
đường
Ông Ích Khiêm, thuộc phường Hải Châu 2, Đà Nẵng, là nhà “của
Năm
Thông” là một tay Việt cộng...
Và cũng từ những gia đình cứ “đi đi về về cả hai nơi” ấy, mà một thời đã có mặt những “Sĩ quan quân
báo - cán bộ cao cấp” của đảng cộng sản Hà Nội, được ăn ở,
hoạt
động ngay trong thành phố Đà Nẵng như: “Đại tá Võ Bá Huân,
Đại tá
Nguyễn Văn Cam, Trung tá Hoàng Quốc Dân... Hồ Nghinh, sau này là
“Ủy
viên Bộ chính trị” Hà Kỳ Ngộ, bí thư Thành bộ (CS) Đà Nẵng...
Những
“Sĩ quan quân báo - cán bộ cao cấp” của VC này đã bị các
chiến sĩ Biệt
Động Quân Việt Nam Cộng Hòa bắt trong cuộc “Tổng công kích”
Tết Mậu
Thân, 1968. Nhưng sau đó, những con cọp này, đã được thả về
rừng...
Huỳnh
Ngọc Chênh đã từng “đi
đi về cả hai nơi”, thì
có lẽ cũng biết đấy. Nhưng nếu Huỳnh Ngọc Chênh vẫn giả đui,
giả
điếc, thì người viết vẫn phải sẽ trình bày cùng quý độc giả
trong
bài kế tiếp.
Paris,
21/3/2013
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
Thằng viết bài nầy là đạo tặc........?
Trả lờiXóaHoàn toàn chính xác 110%100 tất cã các địa danh mà tác giả nêu là chính xác .Có bao điều mà những người cố quên ,hay hổ thẹn vì đã lở lầm nhưng ôm hận trong lòng không nói ra ,tìm chút vớt vác trong cặn bả .hy vọng cho con chút bổng lộc trong cuộc sông hiện tại .Chính vì vàng thau lẫn lộn thế thời nhiểu nhương nên ,đêm dài nước mắt không nhừng rơi ,không phải vì luyến tiếc nhưng đau buồn cho cã dân tộc đang sắp sửa bị xâm lược bởi d/c anh em .
Trả lờiXóaHoàn toàn chính xác 110%100 tất cã các địa danh mà tác giả nêu là chính xác .Có bao điều mà những người cố quên ,hay hổ thẹn vì đã lở lầm nhưng ôm hận trong lòng không nói ra ,tìm chút vớt vác trong cặn bả .hy vọng cho con chút bổng lộc trong cuộc sông hiện tại .Chính vì vàng thau lẫn lộn thế thời nhiểu nhương nên ,đêm dài nước mắt không nhừng rơi ,không phải vì luyến tiếc nhưng đau buồn cho cã dân tộc đang sắp sửa bị xâm lược bởi d/c anh em .
Trả lờiXóa